Liên quan sự việc chồng trộm 2,3 tỷ đồng của vợ, chuyên gia pháp lý cho rằng, đây là sự việc xưa nay hiếm, ít khi xảy ra.
- Bình Dương: Tá hỏa phát hiện người đàn ông tử vong bất thường trong lúc uống cà phê
- Hà Tĩnh: Đã vận động gã đàn ông U60 phạm tội hiếp dâm trẻ em sau hơn 2 năm bỏ trốn
Chồng trộm hơn 2,3 tỷ đồng của vợ?
Phòng Cảnh sát hình sự (Công an tỉnh Quảng Nam) vừa điều tra, làm rõ vụ trộm cắp tài sản trị giá hơn 2,3 tỷ đồng xảy ra tại xã Bình Minh (huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam).
Trước đó, ngày 31/1, bà Nguyễn Thị M. (SN 1970) trình báo bị kẻ gian đột nhập trộm cắp tài sản để trong két sắt trị giá hơn 2,3 tỷ đồng cùng nhiều trang sức có giá trị được cất giữ trong phòng ngủ.
Sau khi tiếp nhận tin báo, cơ quan chức năng đã vào cuộc điều tra. Từ kết quả khám nghiệm hiện trường và tiến hành đồng bộ các biện pháp nghiệp vụ, sàng lọc đối tượng, Phòng Cảnh sát hình sự nhận định đối tượng nghi vấn thực hiện vụ trộm trên là Đinh Văn T. (SN 1969, là chồng bà M.) nên đã triệu tập lên làm việc.
Sau khi đấu tranh, Đinh Văn T. đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Bước đầu xác định, 2 người này là vợ chồng nhưng đã ly thân nhiều năm nay, ở cùng nhà nhưng không chung phòng.
Do có mẫu thuẫn, tranh chấp về tiền bạc trong sinh hoạt nên ông T. nảy sinh ý định trộm cắp tài sản cất giữ trong phòng bà M. Toàn bộ tài sản sau khi trộm được T. bỏ vào túi ni lông, sau đó đem cất giấu tại nhà kho sau nhà. Ông T. sau đó bị lực lượng chức năng tạm giữ để tiếp tục điều tra, làm rõ.
Xử lý như thế nào?
Nhìn nhận vụ việc dưới góc độ pháp lý, Tiến sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường - Đoàn Luật sư TP. Hà Nội cho rằng vụ án chồng trộm tiền của vợ đến mức bị khởi tố là xưa nay hiếm bởi tranh chấp tài sản chung vợ chồng thì nhiều nhưng ít khi có chuyện tố cáo, ngoài ra còn liên quan đến các quy định về sở hữu chung nên việc chứng minh tội phạm không hề đơn giản.
"Với tài sản vợ chồng thì pháp luật quy định có tài sản chung và tài sản riêng. Với tài sản chung vợ chồng thì hai vợ chồng có quyền quản lý, sử dụng, định đoạt ngang nhau, khi vợ chồng chia tài sản trong thời kỳ hôn nhân hoặc khi ly hôn thì sẽ chia theo nguyên tắc của luật hôn nhân và gia đình là chia đôi", Luật sư Đặng Văn Cường phân tích.
Luật hôn nhân và gia đình và bộ luật dân sự cũng quy định tài sản riêng của vợ, của chồng. Theo đó tài sản riêng của vợ, của chồng là tài sản có trước hôn nhân hoặc tài sản có trong thời kỳ hôn nhân do được tặng cho riêng, thừa kế riêng, có nguồn gốc từ tài sản riêng hoặc có thỏa thuận là tài sản riêng.
Theo chuyên gia pháp lý này, về nguyên tắc thì tài sản riêng của ai thì sẽ do người đó quản lý, sử dụng, định đoạt. Hành vi xâm phạm trái pháp luật đến tài sản riêng của vợ, của chồng cũng sẽ bị xử lý bằng các chế tài của pháp luật.
Thực tiễn cho thấy không ít trường hợp vợ chồng tự ý sử dụng tài sản chung, làm hư hỏng tài sản chung, hủy hoại tài sản chung dẫn đến tranh chấp, khiếu kiện. Tuy nhiên đối với những vụ việc này thì thông thường sẽ được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.
Cơ quan chức năng sẽ xác định quyền sử dụng tài sản của mỗi bên trên cơ sở đó xác định hành vi của các bên ở mức độ vi phạm như thế nào. Trong trường hợp tài sản chung vợ chồng nhưng một người sử dụng, định đoạt chưa quá một phần hai giá trị tài sản chung thì hành vi này không vi phạm pháp luật.
Còn trường hợp người vợ hoặc người chồng biết rõ tài sản đó là tài sản riêng, mình không có quyền quản lý, sử dụng, định đoạt nhưng vẫn lén lút để chiếm đoạt tài sản riêng của vợ, của chồng thì hành vi đó cũng có thể được xác định là hành vi trộm cắp tài sản. Người thực hiện hành vi trộm cắp tài sản từ 2.000.000 đồng trở lên thì sẽ bị xử lý hình sự.
"Trong vụ việc nêu trên, cơ quan điều tra sẽ làm rõ số tài sản bị mất thuộc quyền sở hữu của ai, là tài sản chung vợ chồng hay tài sản riêng của người vợ. Trong trường hợp có căn cứ cho thấy số tài sản đó là tài sản riêng của vợ, người chồng biết rõ đây là tài sản riêng của vợ nhưng vẫn lén lút để chiếm đoạt số tài sản này thì hành vi này mới bị xử lý hình sự về tội trộm cắp tài sản theo quy định tại điều 173 Bộ luật Hình sự", Luật sư Đặng Văn Cường nhận định.
Chuyên gia pháp lý này cho biết, trường hợp kết quả điều tra cho thấy số tài sản này là tài sản chung vợ chồng hoặc không có căn cứ cho thấy người đàn ông này đã lén lút để chiếm đoạt tài sản thì sẽ không khởi tố vụ án hình sự.
Trong trường hợp có căn cứ cho thấy người đàn ông này đã lén lút chiếm đoạt tài sản riêng của vợ trị giá gần 3.000.000.000 đồng thì người đàn ông này sẽ phải đối mặt với khung hình phạt từ 12 năm đến 20 năm tù theo quy định tại khoản 4, điều 173 Bộ luật Hình sự