Lê Hằng là nữ nghệ sĩ tài sắc vẹn toàn, sinh ra để ca hát, và chính sự thành công mỹ mãn trong nghệ thuật đã đưa chị đến vinh quang, là một trong những danh ca nổi tiếng nửa cuối thế kỷ 20 của Việt Nam.
Mùa hè năm 1953, công chúng Hà Nội chứng kiến một sự kiện >âm nhạc lớn, là buổi chung khảo cuộc thi hát do Đài Phát thanh Hà Nội tổ chức tại Nhà hát lớn.
Đài phát thanh Hà Nội đóng trụ sở tại 58 Quán Sứ, lãnh đạo đài là hai nhạc sĩ Vũ Khánh và Thẩm Oánh, biên tập âm nhạc đài là nhạc sĩ Dương Thiệu Tước (đều là thành viên sáng lập nhóm Myosotis - một trong ba, bốn nhóm trong thời kỳ đầu của tân nhạc Việt Nam) đã chỉ đạo, tổ chức, dàn dựng nghệ thuật cho cuộc thi này cùng với ban giám khảo trong đó có nhạc sĩ Hùng Lân, Vũ Văn Tuynh… đều là các nhạc sĩ tài danh.
Ngày hôm sau các nhật báo ở Hà Nội đã hết lời ca ngợi và tôn vinh Thanh Hằng là thủ khoa của cuộc thi, là ngôi sao mới trên bầu trời ca nhạc Việt Nam…
Thanh Hằng tên thật là Lê Lệ Hào, sinh ngày 22.10.1935 tại làng Giáp Nhị - Thanh Trì - Hà Nội trong một gia đình dân nghèo thành thị, từ 11 tuổi chị đã phải vừa đi học vừa lao động kiếm sống. Sự gian khó trong cuộc sống ở một thành phố tạm bị chiếm không làm chị mất đi những khát vọng và niềm tin của tuổi trẻ vào tình yêu ca hát, chị đã vừa tự rèn luyện theo năng khiếu vừa tìm thầy học hỏi vươn lên. Khi phát hiện tài năng, nguyện vọng và ý chí của Thanh Hằng, chính nhạc sĩ Tu My đã vận động gia đình chị cho phép chị tham dự cuộc thi này.
Sau khi đoạt giải là những ngày hoạt động sôi nổi của Thanh Hằng, chị được mời biểu diễn ở nhiều sự kiện, tụ điểm ca nhạc, đài phát thanh… Chương trình nào chị cũng được công chúng nhiệt liệt hoan nghênh, cổ vũ. Lần đầu tiên bước ra sân khấu rạp Olympia trong chương trình của Tráng đoàn Hướng Đạo Sinh Việt Nam ngày 13.6.1953, chị đã được tôn vinh như một đỉnh cao của tài năng ca hát.
Thời đó, các rạp chiếu bóng lớn ở Hà Nội thường có chương trình ca nhạc 20 phút trước giờ chiếu để khuyến khích người đến mua vé xem phim, nên các nghệ sĩ - nhất là các danh ca - thường xuyên được mời tham gia những chương trình này. Thanh Hằng đã được mời biểu diễn ở nhiều rạp như Majestic (nay là rạp Tháng Tám), Eden (nay là rạp Công Nhân), Olympia (nay là rạp Hồng Hà), Ciro’s (nay là rạp Kim Đồng), về sau chủ yếu là biểu diễn ở rạp Long Biên (phố Hàng Chiếu).
Đặc biệt, chị còn là đồng tác giả với nhạc sĩ Đặng Văn An bài "Tình mơ" xuất bản 1953 và là thành viên của ban nhạc Thanh Bình (do nhạc sĩ Vũ Nhân và nhạc sĩ Văn Huy kế tiếp nhau phụ trách).
Hoạt động nghệ thuật khoảng 1 năm cùng với các đàn chị và các bạn cùng trang lứa như các danh ca: Tâm Vấn, Thanh Huyền, Thanh Huê, Thu Tâm, Thục Hiền, Kim Nga, Diễm Tuyết và các danh ca của đài phát thanh Sài Gòn như: Kim Tước, Mai Hương, Tuyết Hằng và của đài Pháp Á như: Lệ Thu…, Thanh Hằng đã cùng đồng nghiệp để lại ấn tượng tốt đẹp và sự mến mộ trong lòng công chúng.
Sau ngày tiếp quản, đầu năm 1955, Thanh Hằng hát cho các ban nhạc Gió mới, Lúa vàng cùng các danh ca Minh Đỗ, Huyền Nga, Thanh Hiếu… thường xuyên biểu diễn vào thứ bảy và chủ nhật tại rạp Đại Đồng phố Hàng Cót. Chương trình gồm những bài ca cách mạng, ca ngợi tình yêu quê hương đất nước.
Cuối năm 1955, Thanh Hằng được tuyển vào đội văn công sư đoàn 312 và chính thức đổi nghệ danh là >Lê Hằng. Ngay từ những ngày đầu gia nhập đoàn nghệ thuật của quân đội cách mạng, danh ca 20 tuổi của Hà Nội đã sớm làm quen với quân phong, quân kỷ, hăng hái thực hiện và hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao. Chị đã cùng đồng đội đi biểu diễn phục vụ các trung đoàn, tiểu đoàn trực thuộc và nhân dân trên các địa bàn sư đoàn đóng quân. Lời ca tiếng hát, vở kịch của đội đã để lại những ấn tượng tốt đẹp trong bộ đội và nhân dân.
Năm 1957, quân đội đã sáp nhập một số Đội văn công sư đoàn, lữ đoàn thành một đơn vị mới là Đoàn văn công Quân khu Việt Bắc (tiền thân của Đoàn nghệ thuật Quân khu I), chị đã cùng đoàn đi phục vụ chiến sĩ, đồng bào khắp các tỉnh phía bắc (Cao Bằng, Lạng Sơn, Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu…) cho đến chiến trường B3 – Trường Sơn, Tây Nguyên. Sau tháng 4.1975, chị tiếp tục đi biểu diễn phục vụ Tây Nguyên lần thứ hai và khắp các tỉnh miền Nam (TP.HCM, Cần Thơ, Bạc Liêu, Cà Mau…). Khán giả cực kỳ yêu mến giọng hát và con người của chị, anh chị em trong đoàn cũng hết lòng quý mến người đồng đội, đồng nghiệp xinh đẹp, tài năng, đoan trang và trung hậu.
Thành tích nghệ thuật của chị được đánh giá cao trong các hội diễn. Tại Hội diễn Nghệ thuật toàn quốc 1961, chị đã được nhận huy chương vàng với 3 tác phẩm: "Xuân về hoa nở", "Ru con" (dân ca Mông), "Trước ngày hội bắn" (Trịnh Quý) tại Hội diễn Nghệ thuật toàn quốc 1965, chị được nhận huy chương bạc bài "Trăng sáng đôi miền" (An Chung) .Ngoài ra, chị và đồng đội còn được Quân khu cử đi biểu diễn ở một số nước như Nga, Indonesia, Nhật Bản, Chile…
Kể từ lần đầu tiên bước ra sân khấu rực rỡ ánh đèn của rạp Olympia ngày 13.6.1953 đến khi nghỉ hưu năm 1985, chị đã có 32 năm liên tục ca hát. Do công lao suốt 30 năm hoạt động nghệ thuật trong quân đội, chị đã được Nhà nước và Quân đội tặng thưởng nhiều huân, huy chương cao quý. Năm 1984, chị là 1 trong 28 nghệ sĩ quân đội được Nhà nước phong danh hiệu nghệ sĩ ưu tú đợt đầu.
có thể nói Lê Hằng là nữ nghệ sĩ tài sắc vẹn toàn, sinh ra để ca hát, và chính sự thành công mỹ mãn trong nghệ thuật đã đưa chị đến vinh quang, là một trong những danh ca nổi tiếng nửa cuối thế kỷ 20 của Việt Nam.
Trên con đường nghệ thuật quanh co, việc chị từ bỏ những cám dỗ trong cuộc sống của những thành phố phồn hoa để rẽ theo con đường cách mạng với sự nghiệp thành công rực rỡ, con đường nghệ thuật của Lê Hằng thực sự là một khúc quanh ngoạn mục.